Từ tết Mậu Thân 1968 đến Hiệp định Paris 1973: (Kỳ 2) - Giành thế chủ động, đảo ngược thế cờ

17:57 17/01/2023

Sau thất bại nặng nề trong chiến dịch mùa khô 1966 - 1967, Tổng thống Mỹ Giôn-xơn quyết định đưa thêm 10 vạn quân vào miền Nam Việt Nam, nâng tổng số quân Mỹ tham chiến tại chiến trường miền Nam lên con số nửa triệu vào đầu năm 1968, chưa kể sự yểm trợ của trên 20 vạn quân Mỹ có mặt tại các căn cứ ở Thái Lan, Phi-líp-pin, Nhật Bản, Guam và Hạm đội 7, cùng gần 60 vạn quân của chính quyền Sài Gòn và gần 7 vạn quân các nước thân Mỹ khác.
Dân công tiền tuyến tải đạn phục vụ chiến đấu cuộc Tổng tiến công và nổi dậy tết Mậu Thân 1968 (ảnh tư liệu)

Về phía ta, để thực hiện quyết tâm của Trung ương Đảng, thực hiện chủ trương của Bộ Chính trị, Quân uỷ Trung ương, các chiến trường ở miền Nam gấp rút bắt tay chuẩn bị cho cuộc Tổng công kích - tổng khởi nghĩa; chuẩn bị lực lượng, xây dựng phương án tác chiến và phương án phát động quần chúng nổi dậy, bảo đảm hậu cần tiếp tế, thông tin liên lạc; chuẩn bị cơ sở giấu ém lực lượng và bàn đạp xuất phát tiến công ở vùng ven và trong các đô thị trên toàn miền Nam.

Trước sức tiến công và công tác nghi binh của ta, tất cả các lực lượng chủ lực của địch từ chuẩn bị phản công phải quay về phòng ngự bị động, thế bố trí lực lượng bị đảo lộn, tạo ra sơ hở trong thế phòng ngự để ta triệt để khoét sâu.

Để tiếp tục nghi binh, căng kéo lực lượng của địch, ta và nước bạn Lào mở chiến dịch Nậm Bạc ở Thượng Lào, chiến dịch Đường 9 - Khe Sanh, thu hút quân cơ động của Mỹ, vây hãm, giam chân, tiêu hao sinh lực địch tạo thế cho các chiến trường khác tiến công và nổi dậy.

Các hoạt động nghi binh, đặc biệt chiến dịch Đường 9 - Khe Sanh đã làm cho Bộ Chỉ huy quân sự Mỹ tại miền Nam và giới lãnh đạo Oa-sinh-tơn bị lạc hướng. Trong khi họ dồn toàn trí và lực lượng ra hướng Đường 9 - Khe Sanh và nhận định đây là chiến trường chính, thì cuộc tổng tiến công và nổi dậy bất ngờ diễn ra ở một loạt đô thị trên toàn miền Nam.

Đúng 0 giờ ngày 29-1-1968 (giao thừa theo lịch miền Bắc) quân ta tiến công địch tại sân bay Nha Trang (Khánh Hòa). Từ 0 giờ 30 phút đến 1 giờ 15 phút ngày 30-1-1968 (giao thừa  theo lịch miền Nam) ta đồng loạt tiến công vào thị trấn Tân Cảnh, thị xã Kon Tum (Kon Tum), thị xã Buôn Ma Thuột (Đắk Lắk), thị xã Plây Cu (Gia Lai), thành phố Qui Nhơn (Bình Định), thành phố Đà Nẵng, thị xã Hội An... làm rung chuyển cả dải đất miền Trung.

Đêm 29 rạng ngày 30-1-1968, cuộc tổng tiến công và nổi dậy tiếp tục diễn ra ở khắp các tỉnh và thành phố, thị xã, thị trấn trên toàn miền Nam. Bộ binh, đặc công, pháo binh, biệt động ta đánh mạnh, đánh trúng các mục tiêu trọng yếu và các trung tâm đô thị

Để bảo vệ Sài Gòn - Gia Định, Mỹ - ngụy đã tổ chức một hệ thống phòng thủ vững chắc nhiều tầng, nhiều lớp với nhiều loại lực lượng. Ngay từ phút đầu nổ súng, biệt động ta đã đồng loạt đánh vào các mục tiêu quy định như: Dinh Độc Lập, Bộ Tổng tham mưu Quân lực Việt Nam Cộng hoà, Bộ Tư lệnh Hải quân, sân bay Tân Sơn Nhất, Đài Phát thanh, toà Đại sứ Mỹ.

Trận đánh toà Đại sứ Mỹ hơn 6 tiếng đồng hồ với 17 chiến sĩ biệt động của ta đương đầu với lực lượng quân cảnh, lính dù của Mỹ làm chấn động nước Mỹ và cả thế giới.

Cùng lúc đó, các tiểu đoàn mũi nhọn trang bị gọn nhẹ, từ các bàn đạp vùng ven, nhanh chóng tiến vào nội đô trên các hướng. Xung quanh Sài Gòn - Gia Định, các căn cứ quân sự, trụ sở quân đội và chính quyền Sài Gòn cũng bị tiến công.

Tại mặt trận Trị Thiên, lực lượng ta tiến công Nhà đèn, Ty Cảnh sát, Toà tỉnh trưởng, trụ sở cơ quan bình định và trụ sở Bộ chỉ huy viện trợ quân sự Hoa Kỳ tại Việt Nam (MACV), Tri Bưu, Thành Cổ, La Vang, điểm cao 49.

Nhân dân địa phương rầm rộ nổi dậy cùng bộ đội ta bao vây địch ở trong các quận lỵ, làm chủ đoạn quốc lộ 1, giải phóng khu vực xung yếu ven biển và phía nam Cầu Hai, khu vực Truồi. 

Tại mặt trận Huế, lúc 22 giờ 33 phút ngày 31-1-1968, tiếng súng tấn công bắt đầu vang lên khắp thành phố. Sau 4 ngày chiến đấu liên tục, quân và dân ta đánh chiếm hầu hết các mục tiêu quan trọng như: Dinh Tỉnh trưởng, đồn cảnh sát, đài Phát thanh, các khách sạn Thuận Hóa, Hương Giang, sân bay Phú Bài… làm chủ hoàn toàn thành phố Huế trong 25 ngày đêm.  

Trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy xuân Mậu Thân 1968, quân và dân ta đã đánh vào 4 trong 6 thành phố lớn, 37 trong số 44 thị xã và hàng trăm thị trấn, quận lỵ, 4 bộ tư lệnh quân đoàn, 8 trong 11 bộ tư lệnh sư đoàn quân đội Sài Gòn, 2 bộ tư lệnh biệt khu, 2 bộ tư lệnh dã chiến Mỹ cùng nhiều bộ tư lệnh lữ đoàn, trung đoàn, chi khu và hàng trăm căn cứ quân sự địch bị tiến công đồng loạt. Chúng ta tiêu diệt và làm tan rã 15 vạn quân địch, trong đó có 4 vạn quân Mỹ, 600 ấp chiến lược, giải phóng thêm 100 xã với hơn 1,6 triệu dân.

Bị tiến công đồng loạt, bất ngờ, địch lúc đầu choáng váng. Chúng dồn về mặt trận đô thị, bỏ ngỏ vùng nông thôn. Nắm thời cơ, lực lượng vũ trang tại chỗ hỗ trợ cho nhân dân nổi dậy giải phóng nhiều vùng rộng lớn, quân dân ta mở các đợt tiến công đợt 2 từ tháng 5-1968 và  đợt 3 ngày 17-8-1968, bồi tiếp đòn nặng vào ý chí xâm lược của đế quốc Mỹ, gây cho chúng những tổn thất lớn về sinh lực và phương tiện chiến tranh.

Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy xuân Mậu Thân 1968 là một sự kiện có ý nghĩa chiến lược, giáng đòn quyết định vào ý chí xâm lược của đế quốc Mỹ, tạo bước ngoặt quyết định cho cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của dân tộc ta đi tới thắng lợi hoàn toàn.

Tổng tiến công và nổi dậy xuân Mậu Thân 1968 thể hiện khát vọng về độc lập, tự do và hòa bình cho Tổ quốc, là niềm tin tưởng tuyệt đối vào sự lãnh đạo của Đảng, mang tinh thần sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, kết hợp sức mạnh thời đại và tinh thần đoàn kết quốc tế cao cả.

Sự kiện chính trị - quân sự đặc biệt này đã tạo tiền đề cho thắng lợi trên mặt trận ngoại giao của chúng ta tại hội nghị đàm phán Paris về chiến tranh Việt Nam, buộc người Mỹ và chư hầu phải cuốn cờ rút khỏi miền Nam năm 1973, mở đường để hai miền Nam – Bắc giương cao ngọn cờ thống nhất dân tộc trong đại thắng mùa xuân 1975.

Hoàng Minh (còn nữa)

Từ khóa:
Bình luận của bạn về bài viết...

captcha

Bản tin Pháp luật

Video clip

Phóng sự ảnh

An toàn giao thông